Welcome to 12C2 Class Forum!
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


Diễn đàn dành cho lứa tuổi năng động!
 
Trang ChínhPortalGalleryLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 3

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 124
Points : 23479
Reputation : 0
Join date : 10/09/2011
Age : 30
Đến từ : Đầm Dơi - Cà Mau

Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 3 Empty
Bài gửiTiêu đề: Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 3   Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 3 Icon_minitimeFri Mar 09, 2012 5:31 pm

Chiếc ghe "Ngo"

Thiên hạ đồn rằng lục cụ Tăng Liên có phép mầu nghe được tiếng chim kêu, gió thổi và nghe cả đến tâm sự từng giọt nước, từng hạt bụi trong lòng đất.

Ngày hôm qua, theo sự hướng dẫn của cụ, chú phó hương quản Hem đã đào được một chiếc ghe ngọ Không biết ghe này chôn vùi từ bao lâu rồi; chỉ biết là đất phù sa đã lắp lên gần một thước. Lục cụ Tăng Liên bèn thắp nhang giữa ruộng, đọc kinh lâm râm. Chập sau, cụ quì xuống trân trọng đặt tay lên mũi ghẹ Ghe chưa quá mục, thân hãy còn ngời lên màu nước sơn đỏ chói. Cụ lẩm bẩm:

- Lâu lắm rồi... Hồi xưa kia, chừng năm bảy trăm năm qua, vùng này giàu có, sung túc. Cừ xem chiếc ghe kia cũng đủ biết người xưa tài giỏi hơn người nay...

Chú phó hương quản Hem nói:

- Thưa cụ, tìm được di tích này âu cũng là may mắn cho xóm mình. Không hiểu theo tục lệ mình có nên đào chiếc ghe này, đem xác nó về gần chùa mà thờ?

- Không được. Chiếc ghe ngo dài trên năm mươi thước. Khoảng giữa, cây đã mềm, làm sao đem về chùa nguyên vẹn được. Không khéo, chúng ta hủy hoại công trình người xưa. Thà chúng ta đừng gặp chiếc ghe này còn hơn là gặp mà phá hủy. Chú biết ghe ngo là gì không? Nó là hiện thân của rắn thần Naga, linh hiển lắm. Hồi đức Thích Ca ngồi thiền bên bờ hồ giữa rừng, rắn Naga là thần ác. Hôm ấy mưa to gió lớn, đức Thích Ca cảm hóa được rắn. Rắn bèn quấn tròn chung quanh và ngẩng đầu lên cao để che mưa gió cho đức Thích Cạ Từ đó về sau, người Miên khoét thân cây sao, theo hình rắn, hằng năm bơi đua trên sông để mừng mùa nước nổi.

Chú phó hương quản Hem đứng nghe, tỏ vẻ thành kính rồi đi theo sau lục cụ mà về chùa. Chuyến về, cả hai im lặng. Nắng chang chang. Thỉnh thoảng, họ quay lại nhìn cánh đồng mênh mông, cỏ non vừa mọc xanh rớn. Nơi ruộng sâu, nước ngập lên khỏi mắt cá, lác đác vài người lo cày bừa. Lục cụ nhìn chú phó hương quản, chú phó hương quản nhìn lục cụ. Linh tính như báo trước vời họ điềm gì. Điềm ấy lợi hay hại? Một chiếc ghe ngo bị chôn vùi từ năm sáu trăm năm, nay bỗng nhiên hiện ra chào ánh mặt trời!

Như thường lệ, lục cụ Tăng Liên vào liêu an nghỉ. Phó hương quản Hem tỏ vẻ bối rối. Chú ngồi không yên. Chú không muốn về nhà khi bao nhiêu lo âu còn chồng chất, xao động trong lòng. Một ý nghĩ thoáng qua, chú lập tức bước qua bên hông chùa, nơi trại lá. Dưới trại, một chiếc ghe ngo dài kê lên cao, sơn phết kỹ lưỡng. Chiếc ghe này liên tiếp bốn mùa nước, đã làm vinh diệu cho chùa; cứ mỗi kỳ đua là thắng giải nhứt. Chú nhìn chiếc ghe từ mũi chí lái: bề ngang chừng tám tấc nhưng bề dài đến năm mươi thước. Hình ảnh con rắn thần Naga mà lục cụ giảng giải khi nãy hiện ra trước mặt chú. Hai con mắt ghe chớp lên. Toàn thân ghe như rung chuyển, ngời từng đốm xanh đỏ như vảy rắn. Lái ghe, đằng xa kìa, như quơ qua quơ lại. Gió thổi rào rạt vào trại lá. ào! ào! Hai tai chú nghe lùng bùng tiếng cồn, tiếng trống, tiếng hò reo. Ghe nọ run mình đòi phóng tới, gân cốt chuyển nghe răng rắc. Khiếp quá!

o0o

Lục cụ ngồi trong liêu, ngóng đợi phó hương quản Hem để ra ruộng nghiên cứu xác chiếc ghe thiên cổ nọ.

Trời quá trưa. Rồi mãi xế chiều, chú phó hương quản mới tất tả bước vào, lạy cụ hai lạy như thường lệ. Đôi mắt chú phó hương quản sáng lên:

- Vì có lịnh ông Đốc Phủ chủ quận nên tôi phải đi hầu, về trễ.

Lục cụ sửng sốt:

- Đòi việc gì?

- Dạ, ông Đốc Phủ dạy chùa mình đúng ba ngày nữa phải đem ghe tới chợ Gò Quao mà đua với ghe của mấy chùa khác. Không tuân thì có tội.

- Tội gì? Mới tháng này, chưa tới mùa rước nước! Đua ghe như vậy trái với tục lệ.

Chú phó hương quản cố suy nghĩ:

- Dạ nghe nói lễ lớn lắm. Lễ của Tây, ngày 14 tháng 7. Theo mọi năm, ở Rạch Giá mới có lễ. Năm nay, quận Gò Quao mình bắt chước phát phần thưởng.

Lục cụ Tăng Liên nghiêm mặt lại. Đem ghe ngo của nhà chùa để đua, ăn mừng một ngày lễ chẳng liên quan gì đến dân mình nghĩ cũng khó xử thật. Không tham dự là chống lại với nhà nước Lang Sa, còn tham dự thì mất cả ý nghĩa thiêng liêng. Lục cụ bước ra khỏi liêu, đi vòng qua trại lá để ngắm chiếc ghe ngọ Cụ nói:

- Đua thì cũng được. Ngặt mình không sửa soạn trước. Rủi thua thì mất danh xóm này. Phải bào lại cho láng, sơn hai lớp thật kỹ. Chú phó hương quản biết không? Ghe không trơn láng đi chậm lắm, dầu mình cố sức bơi. Cẩu thả như thế này...

Chú phó hương quản nói:

- Đây là chuyện cực chẳng đã. Chùa nào cũng vậy, họ đâu có thời giờ sửa soạn kỹ hơn mình. Dầu muốn hay không, mình cũng phải đuạ Nghe nói thì quan trên giúp mỗi người một ổ bánh mì, mười người lãnh một hộp sữa. Ai về nhứt, được giải... thưởng danh dự.

Lục cụ gật đầu:

- Phải, nhưng mà... chú chắc mình thắng kỳ này không?

Chú phó hương quản cười dòn:

- Dạ chắc. Dân xóm mình bơi giỏi lắm; hơn nữa, mới tìm được xác chiếc ghe ngo xưa. Ghe có hồn, lục cụ à! Hồn chiếc ghe xưa giúp chiếc ghe đời naỵ Hồi hôm qua, hèn chi tôi nghe chiếc ghe ngo này chuyển mình răng rắc như sung sức lắm.

Thế là sáng hôm sau lục cụ đích thân đọc kinh làm phép cho ghe ngọ Ghe đẩy xuống nước; bao nhiêu trai tráng trong làng hò reo vang dậy như... lân thấy pháo. Sáu mươi bốn cây đầm nhỏ phân phát ra, mỗi người một cây. Trước mũi ghe, cây lọng đỏ giương lên che một cái khay nhỏ đầy rượu, nhang, trầu, hao quả và một ông Phật bằng vàng lớn cỡ ngón tay cái.


Chú phó hương quản được hân hạnh lãnh trách nhiệm chỉ huy cuộc chiến đấu sắp tới. Chú lạy lục cụ rồi đến ngồi nơi mũi ghe, dưới bóng cây lọng. Ba mươi cặp thanh niên lự lưỡng từ từ bước xuống, ngồi sắp hàng hai. Bè ghe khẳm, ngang mí nước, tưởng chừng xê xích một phân nữa là chìm. Nhưng không đâu! Chú phó hương quản đã vấn chiếc khăn nhiễu đỏ lên đầu rồi đánh vào cái cồn nhỏ:

- Môn! Môn! Môn!...

Đoàn lực sĩ hạ dầm xuống khoát nước, nhịp nhàng. Chiếc ghe ngo phóng tới từng bực rồi nổi lên cao khỏi mặt nước. Nước văng trắng xóa hai bên. Ta thấy chú phó hương quản nâng cây dầm lên cao khỏi đầu, bơi trên không khí.

Tập dượt như vậy năm bảy bận, chú phó hương quản bắt đầu yên tâm. Lục cụ mỉm cười, ghé miệng vào tai chú mà căn dặn lần chót:

- Ngày mốt, khi sắp hàng, chú nhớ kỹ: nếu họ sắp cho mình ở phía bờ bên này thì mình phải lấn tới chừng một tấc. Nước ngược chảy bên này mạnh hơn. Chùa Sóc Ven có bùa. Tránh đừng cho bên họ đụng nhằm ghe mình: không khéo ghe mình đứt ra làm hai khúc. Có bề gì chú ngậm ông Phật vàng vào miệng. Nhớ dặn anh em bên mình uống rượu bớt một chút. Mỗi người, phần ba lít là vừa.

Tuy nằm nhà, lục cụ Tăng Liên vẫn theo dõi được cuộc đua ghẹ Cụ nhắm mắt định trí, tai lắng nghe tiếng cồn của ghe gho chùa mình. Nó khác hẳn giọng cồn của chùa khác, cao vút hơn, thanh tao hơn.

Từ sáng đến trưa, tiếng “môn, môn, môn” nghe đều đều. Cụ nhướng mắt, cau mày rồi chập sau ngáp dài, thông cảm: ngoài kia, họ “cáp” độ chưa được. Theo thường lệ, khi xuất phát hai chiếc ghe không ở lằn mức nào nhứt định. Sông quá rộng. Hai bên cứ bơi chầm chậm lấy trớn tới. hai vị chỉ huy liếc mắt nhìn nhau, khi nào đồng ý đua thì mới bắt đầu. Họ mãi “so cựa” với nhau như vậy.

Bỗng giữa trưa, tiếng cồn thúc giục rồi im bặt. Lục cụ đứng dậy, đọc kinh lâm râm, đi tới đi lui trước sân chùa. Chao ôi! Ngoài sông Cái Lớn, hai chiếc ghe ngo đã biến thành hai con rắn thần bay trên mặt nước. Kìa, phó hương quản Hem đỏ rực như cây đuốc: khăn đỏ, mắt đỏ và da thịt đỏ vì rượu, vì máu nóng, vì ý chí bảo tồn danh dự của chùa mình. Kìa! ghe của đối phương đang liều mạng xắn vào hông ghe bên này để được huề vì hai bên đềy chìm. Nhưng người coi lái bên này nhanh taỵ lách qua được. Phó hương quản Hem vội chụp lấy cây dầm nhỏ, nâng lên cao, bơi trên gió như thu hút tất cả sức mạnh của trời, của đất. Ghe vượt qua.

Đoàn dũng sĩ ôm cán dầm sát vào ngực, ngã mạnh tới, chuyển tất cả nhân lực vào mái dầm. Nước bay trắng xóa. Sau cùng, phó hương quản vội cầm ông Phật vàng trong khay, bỏ vào miệng mà ngậm.

Lục Cụ Tăng Liên hình dung cảnh tượng dưới sông Gò Quao như vậy. Nó có thật không? Mồ hôi tươm xuống lưng, thấm ướt áo cà sạ Cụ chắp tay vái Trời Phật rồi vào trong liêu nằm xuống thở mệt, đợi chờ.

Chiều hôm đó, tiếng hát vang dậy, tiếng cồn nhịp nhàng đưa đến ngày một gần. Lục cụ đoán đó là điềm chiến thắng. Cụ rửa mặt, lên chùa thắp nhang để tạ Ơn đức bên trên.

Nhưng phó hương quản Hem bước vào lạy cụ. Gương mặt của chú lạnh như đồng, gợn chút gì buồn bã.

Lục cụ hỏi:

- Sao vậy? Mình thua người ta à?

Chú đáp:

- Dạ, mình thắng. Nhưng mà...

- Sao?

- Nhưng mà được giải thưởng...

Lục cụ trố mắt:

- Được giải thưởng, có gì mà chú ngại. Tiền bạc hả? Vải bô hả? Nhang đèn hả? Năm nay, nhà nước cho vật gì?

Chú phó hương quản Hem im lặng, chập sau mới bước ra ngoài đem vào một gói giấy lớn, từ từ mở ra thì ô hô! Đó là một lá cờ tam sắc to tướng.

Chú nói:

- Cái này của ông Đốc Phủ tặng chùa mình, phần thưởng hạng nhứt.

Lục cụ không nói nửa tiếng, nuốt nước miếng như cố nén chút gì tủi nhục, xót xạ Hồi lâu, cụ lắc đầu, cười xòa rồi đỡ chú phó hương quản đứng dậy. Hai người bước ra sân. Một quang cảnh náo nhiệt diễn ra: bao nhiêu trai tráng đang nằm trên bãi cát, trên đất bùn. Kẻ thì hát nghêu ngao. Kẻ thì ôm ngực mửa ra nào là rượu, bánh mì, kẻ thì vói tay lên như gào thét, đòi thêm rượu nữa.

Chú phó hương quản nói:

- Dạ, bây giờ mình khiêng ghe ngo lên trại, mai mốt sợ không ai rảnh.

Lục cụ nói:

- Phải. Rồi chú ở đây với tôi. Tôi buồn quá. Có chút chuyện cần.

Chú phó hương quản sực nhớ đến chiếc ghe ngo thiên cổ vừa tìm được mấy ngày trước. Nếu hổm rày không bận việc đua ghe này, có lẽ chú xin phép đào nó lên được. Và lục cụ chắc cũng đã dạy chú nhiều bài học hay hơn.

Chú nói:

- Mình ra ruộng, tiếp tục đào chiếc ghe xưa coi thử, phải không lục cụ?

Lục cụ đáp:

- Thôi. Mình cứ lấp đất lại cho chiếc ghe đó yên thân, khỏi bận hồn người xưa. Nay mai, vài chục năm nữa, chiếc ghe của chùa mình cũng vậy. Vạn vật đều biến đổi. Duy có nụ cười của đức Quan âm bốn mặt... Bốn mặt của Ngài nhìn bốn phía để cứu khổ chúng sinh, khuyên ai nấy trầm tĩnh vì sự đời mãi đổi thay, thay đổi.
Cô Út về rừng

Má ơi! Đừng gả con xa.
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu...

Câu chuyện xảy ra tại rạch Bình Thủy, làng Long Tuyền, tỉnh Cần Thơ, đâu cũng vào khoảng năm 1939 hoặc 1940 gì đó.

Trời sáng trăng. Thường lệ cứ đến chín giờ tối là nhà ông hương Cả Ba đóng cửa ngủ sớm. Đêm ấy, có khác. Cây đèn “măng sông” cất lâu trong tủ được đem ra lau chùi, đốt sáng lên. Ông Cả nheo mắt, nhìn đăm đăm ra sân tìm một góc tối om nào đó mà định thần hòng gỡ mối tơ vò rối rắm của gia đình. Ngoài sân, trăng sáng yên lành; lớp thủy ngân xao động, nhảy nhót, gờn gợn trên lá trên cành của vườn cam, trên ngọn tre mềm dịu đang chuyển động từng cơn.

ông lẩm bẩm:

- Kìa... mà gió trở ngọn. Gió chướng qua gió nồm. Hết nắng sang mưa.

Bà Cả lắc đầu:

- Ông này vớ vẩn. Gả con út hay là không? Sáng mai mình phải trả lời cho cậu Quỳnh biết. Ở đó mà lo gió chướng, gió nồm! Hai đứa nó đâu rồi?

- Tụi nó ở ngoài sân nói chuyện rù rì, bà không nghe sao? Thế nào tôi với bà cũng tính cho xong xuôi nội đêm nay.

“Tính” đây là cả một bài toán. Làm thế nào có lợi cho gia đình mình? Gả cô út cho cậu Quỳnh, ông bà rất đỗi vui mừng vì gặp nơi môn đăng hộ đối. Nhưng về mặt tình cảm thì thiệt thòi quá. Gả con gái về chốn Cạnh Đền xa xăm! Tháng trước, ông xuống đó để dò xét thân thế gia đình của đàng trai: căn nhà ngói vách ván, xung quanh có vườn tược lai rai, xa xa nhô lên vài nhà của người Miên. Và rừng xanh một dãy che phủ tứ phía chân trời!

ông đáp:

- Tôi nhứt định gả. Hai đứa nó thương nhau từ hồi còn đi học ở Sài Gòn. Bên đàng trai khá giả. Mình đòi bắt rể, ai mà chịu. Thôi đành vậy...

Bà Cả thở dài:

- Tôi ngại quá. Mình có mụn con gái. Gả đi xa xôi không nói làm gì. Ngặt xứ đó kỳ quái, hiểm nguỵ Nội cái tên Cạnh Đền nghe cũng dị hợm...

- Tưởng bà ngại điều gì chớ chuyện đó thì dễ. Dân ở dưới hiền lành lắm. Bộ thiên hạ ăn thịt con gái mình sao mà nguy hiểm?

- Tức chết đi! Nói vậy mà không hiểu! ông không nghe người ta hát sao?

- Xứ đâu hơn xứ Cạnh Đền,

Muỗi kêu như sáo thổi, đ********* lội lềnh như bánh canh.

ông Cả nghe qua, cười ngất hồi lâu. Bà Cả càng sôi gan:

- Ông cười tôi nói bậy à? Ở xứ đó chạng vạng là ai nấy phải vô mùng để... ăn cơm

- Nhưng sự thật là họ ăn cơm sớm, hồi cỡ bốn giờ chiều để khỏi cần vô mùng. Bà nghe ai nói lại vậy?

- Ông có tài binh vực cho xứ Cạnh Đền. Dẹp chuyện muỗi một bên, tôi bàn qua chuyện đ********* để ông có giỏi thì cãi. Nè, tôi nghe nói... phen đó cô dâu nọ Ở chợ Cần Thơ gả xuống. Cổ xuống bến làm cá, xong xuôi đem trút vô chảo, nấu canh chuạ Dè đâu chừng con đ********* đeo trong khứa cá. Cô dâu nọ bị đuổi vì tội... nấu canh chua bằng đ*********. Oan ức quá. Xứ đ********* nhiều, đâu ai dè trước! Tôi sợ con út nhà mình phải bị đuổi trở về mà mang nhục với xóm riềng.

ông Cả cười dòn:

- Thiên hạ đồn nhưng có thiệt lần nào chưa? Tôi nói cho bà nghe: chuyện đó dóc. Hồi xuống Cạnh Đền, tôi nhắc chuyện... “đ********* lềnh như bánh canh”. Thiên hạ Ở dưới đó cắt nghĩa: Cạnh Đền là nơi nước mặn gần mãn năm. Hơn nữa, ruộng ít khi cày trâu. Làm sao có đ********* ở vùng nước mặn? Chẳng qua là mấy người đặt bài hát đưa em, thêm nhưn thêm nhụy để bắt vần. Đ********* nhiều ở là xứ nước ngọt như Bình Thủy, ô Môn đây nè! Bà biết chưa. Ở đây, từ hồi nào tới giờ, có ai lỡ nấu canh chua đ********* không? Bà chỉ cho tôi coi thử.

Bà Cả đuối lý, cố suy nghĩ, tìm cách bảo thủ ý kiến của mình.

Sau rốt, bà nói:

- Gả con về rừng khổ lắm. Xưa nay, người ta hát:

Mẹ mong gả thiếp về vườn,

Ăn bông bí rợ dưa hường nấu canh.

“Đằng này mình gả con về rừng... Bao nhiêu người chịu tai nạn đó rồi”.

ông Cả hút điều thuốc, chập sau mỉm cười, đắc thắng. Bà day lại:

- Ông gả thì gả đi. Đường xá xa xôi làm sao nó về thăm mình được. Nãy giờ tôi quên nói chuyện đó.

- Dễ ợt. Miễn con gái của mình có hiếu... Gả con... Ở trong nước Việt Nam chờ qua bên Tây bên Tàu gì sao! Một khi quên cha quên mẹ thì dầu ở kế bên nhà nó cũng không thèm về thăm. Tôi thì tôi tin con út lắm. Công cha mẹ nuôi dưỡng, cho đi ăn học lẽ nào nó quên.

Bà Cả bỏ đi chỗ khác, nói lại một câu:

- Để coi nó nhớ hay quên! Xuống miệt Cạnh Đền, muỗi ăn thịt nó. Nó bỏ thây ở dưới, hai ba năm chưa chắc về thăm mình được một lần. Lần hồi mất gốc rễ, nó nhè lấy tên mình, đặt trùng lại cho con cháu của nó mà không hay.

- Tại sao vậy? Bà này vô lý quá...

Tuy cãi lời bà, trong thâm tâm ông cảm thấy chút gì buồn bực đuối lý. “ông có lý luận đúng, nhưng bà... không lẽ nói sai”. Nghĩ vậy, ông lại nằm nơi ghế trường kỷ, lẩm bẩm:

- Ông Tơ xếp đặt rồi. Phận con út vậy đành vậy.

Thế là tháng chạp năm đó, nhà ông Cả treo bông kết tuội để gả con, giữa tiếng dị nghị của bao chàng trai tơ ở rạch Bình Thủy.

o0o

Cô út về làm dâu đất Cạnh Đền.

Hai năm qua.

Ba năm qua...

Chuyến đầu, đôi vợ chồng về thăm ông Cả bà Cả, đèo theo một đứa con gái nhỏ... sổ sữa dễ thương.

Chuyến sau họ về, lại thêm một đứa gái. và một đứa thứ ba nữa đang nằm trong bụng mẹ.

Hai ông bà quá đỗi vui mừng.

Nhưng liên tiếp mấy năm sau họ bặt tin, ngày Tết ngày giỗ cũng chẳng về. Lo ngại quá! Có chuyện gì xảy ra bất lành không?

Hai ông bà muốn xuống Cạnh Đền thăm con nhưng ngại mình già sức yếu, đường xa xôi, phải vượt qua sông Cái Lớn. Nằm đêm, lắm khi bà khóc lóc mà trách ông:

- Tôi nói muỗi rừng ăn thịt hai đứa nó rồi. Xứ gì mà muỗi kêu như sáo thổi. Không đau bịnh rét thì cũng chói nước lớn bụng mà chết... Hồi đó ông cãi tôi, nhớ không?

Ông Cả vô cùng buồn bực. Nhứt là khi nghe con nít chòm xóm hát đưa em:

Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu?

Mỗi khi tiết trời lập đông là cơ thể rêm nhức, tuổi già của ông càng đè nặng hai vai. Nảo nuột quá những câu hát:

Một mai ai đứng bên kinh,

Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài?

Bên kinh đã có con trai,

Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu

Hỏi nào chàng rể ở đâu?

Chàng rể uống rượu đi sau nói xàm...

ông nhìn trời. Ngày nào đó ông chết, con gái không về kịp để phò giá triệu, càng không có chàng rể. Nhưng ông tin tưởng rằng đứa rể của ông ở vùng Cạnh Đền xa xôi kia, giờ phút này đang cặm cụi làm ăn nhớ cha mẹ vợ, không bao giờ uống rượu nói xàm vì chàng là kẻ có ăn học. Suốt tháng ngày, ông chống gậy đi quanh quẩn bên gốc tre già ở mé sông, mắt mòn mỏi nhìn bóng dáng các ghe thương hồ qua lại.

Trời đất nào phụ kẻ có lòng như ông!

Mãi đến buổi trưa đó, có chiếc ghe chèo chậm chậm ngang bến. Chồng trước mũi hỏi vợ sau lái:

- Phải chỗ cây mù u này không? Cậu Quỳnh nói nhà bên vợ Ở đâu đây.

Chị vợ đáp:

- Không chừng... Đúng quá, cách ngã ba, qua hai cây cầu khỉ, nhà ngói có vườn quít.

Anh chồng ngó tới ngó lui, cãi lại:

- Mình mới qua một cây cầu. Chèo tới trước chỗ cây cấu khỉ, đằng kia kìa, họa may...

ông Cả cố gom tất cả sức già, la lớn:

- Ở đây nè, bà con ơi! Nhà vợ thằng Quỳnh ở đây nè...

Ghe đậu lại. Hai vợ chồng nọ được mời lên ăn cơm với thịt gà tại bộ ván gõ giữa nhà ông Hương cả. Trong đời, họ chưa bao giờ được hân hạnh lớn như vậy! ông Cả, bà Cả, người lối xóm xúm lại hỏi nhiều câu quá. Họ bối rối, trả lời vắn tắt:

- Dạ, vợ chồng cậu Quỳnh mạnh khỏe. Nhờ trời sanh được sáu đứa con. Bốn đứa sau đều là con trai.

Bà Cả mừng quýnh:

- Úy! Bộ con út đẻ năm một sao? Con nhỏ đó thiệt giỏi!

Khách trả lời:

- Dạ, đẻ năm một. Đứa ăn thôi nôi, đứa lôi đầy tháng. Mẹ tròn con vuông. Hồi tôi đi đây, cô út gần nằm chỗ một lần nữa. Thưa ông bà, miệt dưới ai cũng vậy. Như vợ chồng cháu đây có tám đứa con.

- Sao vậy cà? Sao vậy cà? Ở dưới cỡ này ra sao mà thiên hạ đẻ nhiều quá vậy?

Khách ngượng nghịu, chập sau mới nói:

- Dạ Ở miệt dưới muỗi dữ lắm. Chạng vạng là cả nhà, vợ chồng con cái rút vô mùng... nói chuyện. ít ai đi đâu.

Ai nấy phá lên cười tọ Đến lúc bấy giờ, ông Cả bà Cả mới hiểu thêm một sự bí mật quan trọng của tiếng “muỗi kêu như sáo thổi” ở Cạnh Đền. Nó làm hại sức khỏe con người. Nhưng nó gắn bó mối tình chồng vợ hơn ở xứ không có muỗi.

Để đánh trống lảng, ông nói:

- Ừ! Phải vậy mới được. Xứ mình cần có dân đông để tạo lập thêm ruộng vườn, khai phá đất hoang.

Bà Cả nóng ruột:

- Anh chị đây có nghe vợ chồng nó nhắn chừng nào đem mấy đứa cháu ngoại của tôi về cho biết mặt?

Khách trả lời:

- Dạ không nghe. Con cái lũ khũ cả bầy, chắc vợ chồng cậu Quỳnh khó đi xạ Năm rồi mùa màng thất bát, ai cũng lo tay làm hàm nhai để nuôi con. Sông Cái Lớn mấy năm nay lại thêm sóng gió bất thường.

Bà thở dài, nói như rên siết:

- Nhớ mấy đứa nhỏ quá. Ông ơi! Hồi đó ông cãi tôi...

ông Cả im lặng, nghĩ đến cái ngày gần đất xa trời của mình. Nó không còn bao xa nữa. Ngày đó, ai phò giá triệu, ai rinh quan tài? Nhìn bụi tre già dưới bến mà ông tủi thân: Măng non mọc kề bên gốc. Phận ông có khác; con gái, con rể và đám cháu ngoại ở chốn xa xôi kia làm sao được gần gũi để ông thấy mặt lần đầu- và cũng là lần chót – khi ông tàn hơi. Nước mắt muốn tươm ra, ông cố dằn lại. Ông hiểu đời ông chưa tới mức đen tối, còn chút ánh sáng lập lòe trong tương lai vô biên vô tận:

- Ờ... Ở dưới nó có lập vườn chưa? Lát nữa, anh chị chịu khó chở về dùm cho vợ chống con út một gốc tre Mạnh Tông để làm giống. Chừng thấy măng non cận gốc già, mấy đứa cháu của tôi luôn luôn nhớ ông ngoại bà ngoại nó trên Bình Thủy.
Con Bảy đưa đò




Rạch Cái Cau là ngọn sông Cái Lớn ăn qua địa phận tỉnh Cần Thợ Trên ba mươi năm về trước, đó là nơi sầm uất, lau sậy mọc um tùm quanh mấy gốc bần to lớn cở hai người ôm không xuể. Sớm thì chim kêu, chiều thì vượn hú, quang cảnh buồn bã làm sao! Thỉnh thoảng, có người bảo rằng: giữa đêm khuya nghe tiếng cọp rống. Những tin đồn đãi bất lành như vậy lần lần bị đánh tan và không còn làm cho ai sợ sệt nữa. Kìa kinh Xáng Lái Hiếu vừa múc xong! Ngọn nước bạc mát lạnh, ngon lành đổ tuôn qua Rạch Giá, mang mấy dề lục bình lá xanh bông tím trôi phiêu lưu từ sông Hậu Giang ra ngoài khơi vịnh Xiêm La xa thẳm.

Sông rạch thông thương, vàm Cái Cau lần lần có người đến cất nhà đông đúc thành xóm nhỏ, có ông hương ấp đứng đầu. Ông hương ấp họ tên gì? Nhà ở lối nào? Điều đó khách thương hồ ít ai quan tâm đến.

Có qua đây, dầu vô tình đến cách mấy đi nữa họ cũng phải chú ý đến một cái tên, hay nói đúng hơn là một giọng hát: giọng hát của con Bảy đưa đò. Nó xa lạ nhưng quen thân, ấm áp. Khi cất lên thì cao hơn tầm bay bổng của con cò, con vạc, cao vút tận mấy vì sao đêm lấp lánh; giọng ấy lúc buông trầm xuống thì như hơi gió xao động cả giòng sông, chuyển rung mặt nước dẫu khi thuyền đã xa khuất. Nó trở thành một lớp mù sương mờ ảo che lấp bóng dáng của người hát. Khách ngẩn ngơ nhìn theo không còn thấy gì nữa tâm trí bâng khuâng giữa cảnh sông rạch âm u với nhánh “bần gie con đốm đậu sáng ngời”.

Người hát hay thường thường là có nhan sắc.

Bao nhiêu người tưởng tượng như vậy. Họ tìm tòi rồi đâm ra thất vọng. Vài người quả quyết:

- Cô lái đò này mặt rỗ hoa mè.

Nhưng rồi không nói ra, họ cũng phải nhìn nhận một sự thật: con Bảy có gương mặt chữ điền, đôi mắt đen lánh và vóc hình cao ráo.

Lý lịch của con Bảy ra sao? Chuyện đó lại càng khó hiểu. Chính ông hương ấp cũng chưa rõ vì hồi đó đàn bà, con gái không mang giấy chứng chỉ nên không có ghi tên vào bộ sổ. Mấy người ở lâu năm tại vùng này nói lại: năm đó, đâu từ miệt Cần Thơ, con Bảy xuống đây gặt mướn. Có điều lạ là đến khi rồi mùa thì cất chòi mà ở luôn chớ không về xứ. Năm sau, người mẹ già mang bịnh mà chết. Con Bảy đành sống một mình, hằng đêm chuyên nghề bán bánh bò cho ghe xuồng qua lại để độ nhựt; sau đó, đưa đò. Xóm này bao nhiêu trai làng gấm ghé nhưng nó không ưng ai. Lần lần thiên hạ phải dang ra.

Dạo nọ, cậu trai làng con của ông hương ấp vừa học được câu hát:

- Hò... Ơ... Anh muốn gá chữ lương duyên với em trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có vô phần từ trần, xấu phước chết trước thì em ơi! Đừng chôn xác anh dưới nước sâu sợ e con đ********* cắn, đừng chôn anh trên gò bởi ngại con mối ăn...

Gái trong làng không ai đối được. Cậu trai nó thích chí hát mãi một câu ấy hầu khoe tài khoe trí của mình. Nhưng đêm sau, giọng hò con Bảy trả lời:

- Hò... Ơ... Em gá chữ lương duyên với anh trăm năm tình chồng nghĩa vợ. Mai sau anh có xấu phần từ trần chết trước, em rước thợ Bắc về cẩn đá lục lăng để chôn chàng.

Nghe câu đáp, ai nấy tấm tắc khen ngợi. Khi nấm mồ được cẩn đá thì sợ gì đ********* cắn, mối ăn. Đó là cách giải quyết ổn thỏa nhất của mối tình bền như đá. Cậu trai nọ suy nghĩ tìm nhớ câu rao khác để thử tài con Bảy. Nhưng giọng con Bảy vội đuổi theo:

- Hò ơ... Gái tôi không hò đến chuyện Tây Du thì thôi, chớ hò đến chuyện Tây Du thì nhắc từ thuở xưa kia Tề Thiên Đại Thánh loạn Thiên Cung đánh trời giành đất làm cho ông Nhạc Hoàng xang bang xấc bấc, đến chừng thác xuống đất bị Ngũ Hành Sơn chụp đè. Phật Bà có dặn: Này Tôn Hành Giả ơi! Nằm xuống đây chờ chừng nào Tam Tạng đi thỉnh kinh mi hãy đi theo làm đệ tử, Tam Tạng đi đến chợt thấy Tề Thiên nên mau mau chạy đến gỡ hai lá bùa... Tề thiên vùng mình đứng dậy được, nhưng mình mẩy thì ôi thôi... rong rêu đóng giáp, lỗ mũi thì cỏ mọc xanh lè... Bớ trai chàng có thấy không?

Cậu trai đành chịu thua không đáp được, về nhà sanh bịnh tương tự Trong cơn bịnh triền miên, có lần cậu đánh bạo bơi xuồng qua nhà con Bảy để tỏ nổi lòng:

- Hò... Ơ... Hột châu nhỏ xuống khoang hầm,

Em ơi! Phận em là gái phải có chồng nay mai.

Con Bảy vội đáp:

- Hộ hôn, điền thổ, đổ lửa mái nhà,

Đứa nào muốn bậu, ông bà cháy tiêu...

Tức tối biết bao nhiêu! Cậu trai quay trở về. Quả thật cô ta hỗn xược dám khinh rẻ cậu và cả đám trai tơ ở xóm vàm này. Cũng may, câu đáp ấy nhỏ giọng vừa đủ cho cậu nghe thôi. Câu âm thầm ôm mối hận, hằng đêm tự an ủi:

- Đèn treo Trường án, tỏ rạng bờ kinh.

Bình Thủy lưu linh, đáo lại Long Tuyền.

Trà Niền, Kinh Xăng, Ba Láng, Cái Răng

Hơn không hơn cũng kiếm cho bằng.

Có đâu thua bạn, bạn hành cười chê...

Nhưng ở đồng quê, chuyện gì xảy ra lần lần thiên hạ đều hay biết. Họ không tiếc lời để mỉa mai con Bảy:

- Ừ, Trời cao có mắt. “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”. “Trèo cao té nặng. Ngó cao đau ót”.

Cái ngày ấy lại đến.

o0o

Như thường lệ, con Bảy sửa soạn lên bờ ngủ. Khuya ít có khách sang ngang. Hơn nửa, trời chuyển mưa đen kịt phía Nam. Nhưng kia, một ánh đèn nho nhỏ chói lềnh bềnh giữa sông, từ từ trôi lại như cố ý đón đầu:

- Hò... Ơ... Thân anh như con phụng lạc bầy.

Thấy em lẻ bạn, anh muốn vầy duyên loan.

Câu rao ấy thuộc loại tầm thường! Nhưng cảm mến cái giọng trai ấm áp, con Bảy hát lại:

- Gặp mặt anh đây, em muốn vầy hai họ,

Sợ vợ anh ở nhà tiếng nọ tiếng kia.

Khách cười to:

- Anh nói với em, anh đã có vợ nhà.

Vợ thì mặc vợ, anh xử hoà thì thôi!

Thừa lúc con Bảy đang rối trí, khách hò thêm một hơi:

- Anh thương em, thương quấn thương quít,

Bồng ra gốc mít. Bồng xít gốc chanh.

Bồng quanh đám sậy. Bồng bậy vô mui.

Bồng lủi sang lái. Bồng ngoáy trước mũi.

Đặt em nằm xuống đây...

Kể từ hồi em đau ban cua lưỡi trắng, miệng đắng, cơm hôi.

Tiếc công anh đỡ đứng, bồng ngồi.

Bây giờ em vinh hiển... em bắt anh đi bán nồi làm chi?

ý trách người tình nhân bạc bẽo! Trí nhớ của con Bảy bao giờ cũng có cách sẵn sàng ứng phó:

- Bánh bò một vốn ba bốn đồng lời, khuyên anh ở nhà cứ việc ăn chơi. Để em đi bán kiếm ít tiền lời, trước nuôi ba với má, sau lại nuôi mình...

Cũng là tưởng nghĩa tưởng tình. Ai dè anh bạc nghĩa em phải ở một mình bơ vơ!

Khách bên xuồng nọ lên tiếng:

- Ờ nàng ơi!

Khiến nghĩa bất vi vô dõng giã, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng. Nàng còn nghĩ phận chữ tùng, thì trao dây xích buộc vòng sau đây.

Tức thì khách quày xuồng đi trước, rủ con Bảy tranh tài với khách. Nào chịu thua, con Bảy liền bơi theo sau.

Mái chèo phía trước nhịp nhàng:

- Đêm khuya anh thức dậy xem trời;

Anh thấy sao Nguyệt Bạch, ngó xuống lòng rạch, anh thấy con cá chạch nó lội đỏ đuôi.

Nước chảy xuôi, con cá buôi nó lội ngược.

Nước chảy ngược, con cá nược nó lội theo.

Anh than với em rằng số phận anh nghèo.

Đũa tre đâu dám đánh đèo với đũa mun.

Giọng con bảy lảnh lót đuổi theo:

- Canh khuya em thức dậy, em lau nĩa rửa dỉa, dọn bàn,

Tay em san rượu chát, miệng em hát một đôi câu.

Trên lầu kia tiếng chuông đánh rộ,

Dưới nhà việc trống đổ tàn canh.

Em đây lịch sự chi đó mà đi đâu năm bảy người giành?

Giả như con cá kia ở chợ, dạ ai đành nấy mua.

Đến khúc sông vắng, xuồng của chàng từ từ dừng lại. Con Bảy cũng lơi mái chèo. Bên ngọn, gương mặt của chàng rõ ràng là khôi ngô, tuấn tú. Chàng nói:

- Cô Bảy hò hay quá.

Con Bảy cúi đầu:

- Anh hò hay hơn em đó chớ!

- Anh khen cái giọng hò của cô em. Nghe sao mà ngộ quá. Cô em dạy cho tôi...

- Có gì mà dạy. Đó là điệu “hò bánh bò” bắt chước giọng rao bán bánh bò trên sông. Ở đây sông rộng, nhà cửa, ghe xuồng thưa thớt. Mình phải có giọng vừa cao vừa dài, che lấp hết, để cho ai nấy nghe được mình. Khó hơn giọng hò cấy nhiều lắm, vì hò cấy có nhiều người ở gần mình để “hòa hơi” theo. Ở đây mình hò một mình.

Đôi mắt của chàng sáng lên, ngạc nhiên:

- Vậy sao? Hồi nào tới giờ tôi không hiểu rành.

- Ủa! Chàng ở xứ lạ mới đến à?

- Phải. Tôi ở Bình Thủy-Phong Điền xuống đây. Nhưng ở đâu cũng là non với nước.

- Em gốc ở Ba Láng. Vậy là cũng như một quệ Em đến đây hai năm rồi. Lúc này ở trển ra sao?

- Cũng vậy... Hồi tháng sáu, Tây ăn lễ lộc gì đó. Cụ cử Hoành ở Sa Đéc không chịu treo cờ của nó trước nhà. Thiên hạ đồn, không biết hư thiệt... rằng ngày lễ ấy cụ treo quần trước cửa để phản đối. Ở Bình Thủy, cụ Tòng Hiên làm bài thơ tự trào. May thay, hương chức làng giấu nhẹm nhưng vẫn thấu tai quan trên. Lúc đề bài thơ ấy, cụ Tòng Hiên kẹp ngọn bút ở giữa hai ngón chân mà viết. Ngạo nghễ quá! Khí khái quá! Vừa rồi ở Cái Răng có người bị tình nghi vì đã chép bài thơ “Vịnh chó chết trôi sông” Của cụ Cử Trị mà dán giữa nhà. Vì vậy, tôi phải đi. Qua đây gặp cô, vui biết mấy. Thôi ta tạm biệt...

Nghe qua, con Bảy bùi ngùi tấc dạ; Từ chỗ kính mến đến chỗ yêu thương chàng trai đó cũng không xa mấy. Con Bảy nhìn vầng trăng khuyết vừa hé lên khỏi ngọn bần.

- Bao giờ chàng trở lại. Em xin chờ.

Chàng cười mà đáp:

- Cám ơn.

- Lời em hứa là chắc. Hay chàng không tin nơi lời nguyền của gái đưa đò.

- Đâu phải vậy. Chỉ sợ tôi không giữ đúng lời hứa của tôi. Chí trai bốn biển là nhà. Không có sức như chim bằng, như cá kình chớ phận con se sẻ, con tép, con tôm này cũng đòi học ngao du trong vòng đất nước nhỏ hẹp.

Dứt lời, chàng đứng dậy cất mái chèo. Con Bảy xúc động, rưng rưng nước mắt. Duyên may một đời chưa chắc gặp hai lần.

- Vậy thì xin chàng dạy lại cho em một đôi câu hò... để em nhớ đời.

- Cô hò đã hay mà lại có duyên. Tôi còn biết gì mà dạy thêm. Họa chăng chỉ có một tấm lòng này...

“Một tấm lòng”! Con Bảy mãi suy nghĩ về ba tiếng đó, chừng giựt mình nhìn lại thì chàng đã khuất dạng trong lớp sương khuya.

Cầu cao ba mươi sáu nhịp,

Em qua không kịp,

Nhắn lại cùng chàng:

Cái nghĩa tào khang sao chàng vội dứt?

Đêm nằm thao thức, tưởng đó với đây,

Biết nơi nao cho phụng gặp bầy,

Cho le gặp bạn,

Ruột đau từng đoạn,

Gan thắt chín từng,

Đôi ta như quế với gừng,

Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi,

Bây giờ, con Bảy đưa đò đã già; người ở chợ vàm lại kêu bằng dì Bảy Đò. Cứ mỗi sáng, dì ngồi đó nhưng tâm trí bâng khuâng theo câu hát nói trên. Chàng trai trẻ năm xưa như con nhạn bay xạ Phận của dì ví như con le bơi lội lẩn quẩn trong ao hồ nhỏ hẹp. “Dầu xa nhau nữa cũng đừng tiếng chi”. Phải chăng là dì năn nỉ chàng trai năm xưa đừng khinh dì là người kém lòng yêu non nước? Mấy năm rồi, dì không còn đưa đò nữa. Ngang kinh Xàng đã có cây cầu sắt. Trên, xe hơi chạy. Dưới, tàu đò đưa. Ngay tại vàm xóm nhà cũ lần lần tản ra, nhường chỗ cho một nhà lồng chợ.

Hồi nào thênh thang trời rộng sông dài, giờ đây dì ngồi lì một chỗ. Hồi nào trăng trong gió mát, giờ đây dì phải chịu đựng từ hừng đông tới lúc tan chợ trưa, bên một lò lửa cháy và một nồi nước sôi! Nãy giờ chúng tôi quên nói rõ: dì chuyên bán thịt heo luộc.

Nếu thời xưa dì nổi danh về câu hát câu hò, ngày nay món thịt heo luộc của dì cũng ngon ngọt không đâu sánh kịp. Thịt heo già, thịt heo nái mà dì luộc rồi thì cũng trở nên mềm mại, không dai, da thật dòn. Bởi vậy, lắm người ở chợ lân cận đến đây tìm mua cho được để nhậu hoặc ăn với bánh hỏi.

Lắm người khách tò mò:

- Dì Bảy à, Dượng Bảy đâu rồi! Sao ở đây không ai biết cả?

Dì đáp:

- Dượng Bảy đâu còn! Cũng như không. Dì... Ở góa hằng chục năm rồi mấy cháu à...

- Làm sao thịt heo của dì luộc ngon quá vậy? Chỉ cho chúng tôi học với.

- Có khó gì đâu. Nhưng... mà khó lắm! Phải luộc trong nồi nước có để chút xíu phèn. Đừng cho nước quá sôi mà hại đó mấy cháu! khi nước sôi thì đổ vô một lon nước lạnh. Cứ như vậy hoài. Dì chỉ cho nhiều người nhưng họ luộc không ngon, nói rằng dì giấu nghề...

- Ờ... nghe mấy bà già nói rằng hồi đó dì đưa đò, hò hát hay lắm phải không dì Bảy? Dì nhớ lại, dạy dùm chúng tôi...

Thiệt là khó quá. Không dạy, e mang tiếng làm hiểm. Mà dạy thì dạy làm sao? Ngồi đây mà nhớ đến cái thời xuân xanh năm nào! Nó như chiếc lá già rụng, mục nát trở về lòng đất để làm phân cho nghững cây tơ khác đâm lộc nẩy hoa. Nó như một chiếc xuồng cũ kéo lên trên đất khô, phơi dưới ánh nắng day gắt. Còn đâu hơi gió cũ? Còn đâu ánh trăng xưa? Còn đâu hơi thở, còn đâu dáng người? Còn đâu bến sông “nhánh bần gie con đốm đậu”?

Buộc lòng dì Bảy nói một câu:

- Cái việc hò hát cũng như cái việc luộc thịt heo vậy. Ai làm cũng được. Cách thức dễ ợt. Nhưng mà công phu lắm.

- Công phu là thế nào dì Bảy?

Im Lặng, chập sau dì đáp:

- Ở đây, hồi đó có người nói là cần “một tấm lòng”.
Về Đầu Trang Go down
https://thptdamdoi12c2.forumvi.com
 
Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 3
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 6
» Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 1
» Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 2
» Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 4
» Hương Rừng Cà Mau_tác giả: Sơn Nam Part 5

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Welcome to 12C2 Class Forum! :: Góc Thư Giản :: Truyện Ngắn-
Chuyển đến